Cuộc đời và sự nghiệp Nguyễn Đình Phúc

Thân thế

Nguyễn Đình Phúc sinh ngày 20 tháng 8 năm 1919 tại huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông, ông được đào tạo và xây dựng sự nghiệp chủ yếu tại Hà Nội.[1] Nguyễn Đình Phúc xuất thân từ gia đình bình dân với người cha là giáo viên trường tiểu học ở tỉnh lẻ, còn mẹ là tiểu thương bán cá ở chợ Đồng Xuân.[2] Nguyễn Đình Phúc học trường tiểu học Hàng Vôi.[3] Từ nhỏ, ông tỏ ra say mê âm nhạc và hội họa nên đã học đàn cello với nghệ sĩ người Nga Sibirev trong ban nhạc Milewitch thường biểu diễn ở một khách sạn trên phố Tràng Tiền.[1] Nguyễn Đình Phúc còn là sinh viên dự bị của Trường Mỹ thuật Đông Dương khóa 1941 – 1942 cùng với Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng, Dương Bích Liên.[1]

Khởi đầu sự nghiệp

Khởi đầu sự nghiệp, Nguyễn Đình Phúc biểu diễn cello cho một gánh xiếc lưu động.[1] Tại gánh xiếc này, ông kéo đàn cho các tiết mục tạp kỹ.[4] Ở tuổi 20, Nguyễn Đình Phúc học vĩ cầm với Phạm Đăng Hinh, đồng thời theo học dương cầm với nhạc sĩ người Nga lưu vong Sibirev.[2] Trong thời kì tân nhạc Việt Nam dần hình thành, ông là một nghệ sĩ độc lập.[5] Ông cũng áp dụng vốn tiếng Pháp để tự học về nhạc lý phương Tây.[2] Năm 1942, ông gia nhập nhóm nhạc ABC biểu diễn hàng đêm ở quán Tuyết Sơn trên phố Hàng Bông và thỉnh thoảng biểu diễn giúp đỡ các tổ chức từ thiện ở các thành phố lớn khác như Huế, Đà Lạt, Sài Gòn.[6] Trong thời gian này, ông gặp nhạc sĩ Tạ Phước và theo học sáng tác trong một thời gian. Nguyễn Đình Phúc còn kết bạn với nhạc sĩ Phạm Duy và một số người khác.[7] Niềm hứng khởi sáng tác của ông được hình thành. Một ngày tình cờ ông đã cùng Phạm Duy đi dạo trên hồ Gươm với lời hứa hẹn sẽ cùng phổ nhạc cho thơ của Nguyễn Bính. Nguyễn Đình Phúc chọn bài "Cô lái đò", còn Phạm Duy phổ nhạc cho bài "Cô hái mơ".[7] Cả hai đi ngược chiều nhau rồi hẹn sau một vòng hồ là sáng tác xong bài hát. Ông đã sáng tác được bài hát "Cô lái đò" với 2000 bước chân, còn bài "Cô hái mơ" trở thành sáng tác đầu tay của Phạm Duy.[7][8][9] Ngay lập tức ca sĩ Ngọc Bảo đã biểu diễn và bài hát "Cô lái đò" và đã gây được ấn tượng với công chúng.[7] Thời gian này, Nguyễn Đình Phúc đã có sáng tác đầu tay là bài "Lệ thu", nhưng từ bài "Cô lái đò" phổ nhạc từ thơ Nguyễn Bính mới tạo cho ông một vị trí trong dòng nhạc lãng mạn Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám.[6] Tác phẩm này được xem là bài hát thành công hiếm hoi của sự kết hợp giữa phong cách tân nhạc và cổ nhạc Việt Nam trước năm 1945.[10]

Do có hành động phản ứng lại việc học sinh phương Tây miệt thị học sinh Việt Nam nên Nguyễn Đình Phúc bị đuổi học khỏi Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương.[6] Tuy vậy năm 1943, với bút danh Du tử, ông đã giành giải nhất tại triển lãm tranh "Duy nhất" ở Hà Nội với bức tranh sơn dầu "Chú bé thổi sáo". Với 500 đồng bạc Đông Dương tiền thưởng cùng tấm vé xe lửa để vào miền Nam, Nguyễn Đình Phúc đã mang đàn cello và giá vẽ để rong ruổi biểu diễn nhiều nơi khắp cả nước.[11] Nhưng lâu dần ông vẫn không thể tự nuôi sống bản thân bằng nghề vẽ tranh, chơi đàn.[12] Năm 1944, khi nghe tin cha mất, Nguyễn Đình Phúc còn không đủ tiền mua vé về miền Bắc chịu tang. Trong nỗi cô đơn và xót thương tại Đà Lạt, ông sáng tác "Lời du tử" để tưởng nhớ tới cha mình.[12] Đây cũng là bài hát cuối cùng mà ông viết trong thời kì âm nhạc lãng mạn trước Cách mạng Tháng Tám.[10]

Tham gia Cách mạng và hoạt động nghệ thuật

Khi Cách mạng Tháng Tám bùng nổ tại nhiều nơi, Nguyễn Đình Phúc bị cuốn hút và bắt đầu tham gia các hoạt động Cách mạng. Ông được giao nhiệm vụ làm đạo diễn vở kịch "Nợ nước" để lấy tiền xung quỹ cứu đói ở miền Bắc. Ông còn đi diễn thuyết, tuyên truyền xung phong, tổ chức văn nghệ khắp vùng Lang Biang đến tận Phan Rang.[6] Với đề tài Cách mạng, ông có sáng tác khởi đầu là "Một, hai". Bài hát được phổ biến tới mức sau khi thực dân Pháp chiếm Đà Lạt đã phải sai cấp dưới đi lùng bắt tác giả, nhưng khi đó Nguyễn Đình Phúc đang là đại biểu khu vực đi dự Đại hội Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất tại Hà Nội.[13] Trong 9 năm Chiến tranh Đông Dương từ 1945 đến 1954, Nguyễn Đình Phúc đã mang đàn cello biểu diễn tại nhiều mặt trận chiến trường quan trọng với tư cách là Trưởng đoàn Ca nhạc tuyên truyền Trung ương của Cục Tuyên huấn.[13] Năm 1946, tại Triển lãm Mỹ thuật Toàn quốc đầu tiên của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, bức "Trong và sáng" của ông đã đạt giải thưởng và được Nhà nước Việt Nam mua lại.[14] Trong ban lãnh đạo Văn công Liên khu Việt Bắc, bên cạnh với công việc quản lý, Nguyễn Đình Phúc còn sáng tác một số bài ca như "Quân Tiên phong", "Sau cơn mưa trời lại nắng", đặc biệt là hai ca khúc nổi tiếng về chiến dịch sông Lô là "Chiến sĩ sông Lô" và "Bình Ca".[13] "Bình Ca" là một trong những bản trường ca có tầm cỡ lớn đầu tiên ở Việt Nam.[15]

Nguyễn Đình Phúc còn có công trình nghiên cứu "Để góp phần vào vấn đề nghiên cứu quan họ" viết trong 13 năm từ 1949 đến 1962 và còn được Hội nhạc sĩ Việt Nam trao tặng giải thưởng, qua đó ông là người tiên phong trong công việc nghiên cứu dân ca quan họ Bắc Ninh.[16] Một nhà nghiên cứu văn hóa cho rằng đây được xem là cuộc điền dã sớm nhất nghiên cứu quan họ.[17] Trong chiến tranh Việt Nam, Nguyễn Đình Phúc tiếp tục tham gia tích cực hơn trong công việc sáng tác nhiều lĩnh vực khác nhau của nghệ thuật. Kể từ năm 1955, Nguyễn Đình Phúc được cử thành lập Ban âm nhạc điện ảnh. Qua đó, ông là nhạc sĩ viết nhạc cho điện ảnh đầu tiên của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ các phim tư liệu đến phim truyện.[13]

Đồi Cọ thuộc chợ Chu (Thái Nguyên) là trụ sở đầu tiên của nền điện ảnh Việt Nam, cũng là nơi bắt đầu sự nghiệp âm nhạc cho điện ảnh của Nguyễn Đình Phúc. Tại nơi đây, đạo diễn Phạm Văn Khoa đã nghĩ tới phần nhạc để thực hiện một bộ phim nên đã đi mời các văn nghệ sĩ về với điện ảnh. Trong giới nhạc ngoài Nguyễn Đình Phúc còn có nhạc sĩ Văn Cao, Phạm Văn Chừng.[18] Những năm tháng sống ở chiến khu Việt Bắc, Nguyễn Đình Phúc đã soạn nhạc cho bộ phim tài liệu đầu tay "Giữ làng giữ nước". Từ kinh nghiệm đó, ông đã viết nhạc cho phim truyện đầu tiên của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa "Chung một dòng sông". Sau đó, một số bộ phim khác cũng được ông sáng tác nhạc là "Lửa trung tuyến", "Nước về Bắc Hưng Hải", phim hoạt hình cho Lào "Nàng Ngà".[13][19] Trong thời gian này, ông vẫn sáng tác ca khúc một cách đều đặn, trong đó có "Nhớ anh giải phóng quân", "Gửi anh đi đầu quân", "Những bông hoa Cheng-rét", "Tiếng đàn bầu".., với bút danh Nguyễn Thơ. Trong đó, đáng chú ý là ca khúc "Gửi anh đi đầu quân" giành được giải thưởng Nguyễn Đình Chiểu năm 1984.[20] Năm 1966, nhạc sĩ còn cho ra mắt một ca khúc có nội dung ca ngợi lực lượng trồng cây với bài "Bô lão chúng ta còn dẻo dai".[21]

Những năm sau này

Sau khi Việt Nam giành được độc lập, Nguyễn Đình Phúc được cử sang thực tập chuyên ngành sáng tác tại Nhạc viện Quốc gia Sofia tại Bulgaria. Từ đây, ông đã dành nhiều tâm sức và thời gian cho sáng tác nhạc đàn ở các thể loại khác nhau như thính phòng, sonata, tổ khúc giao hưởng, giao hưởng và cả concerto cho vĩ cầm.[20] Ông còn làm công việc chuyên gia văn hóa cho LàoCampuchia. Những năm tháng sống tại hai đất nước này, ngoài việc làm cố vấn về nghệ thuật, ông còn xuất bản những công trình nghiên cứu của Việt Nam về nền văn hóa hai nước nói trên như cuốn "Xuphaxit – Lời nói giao duyên Lào", "Truyền thống Campuchia", "Sổ tay âm nhạc".[20] Năm 80 tuổi, ông và bạn bè phát hành tập thơ "Lá hát". Trước đó, ông cũng được trung tâm Văn hóa Pháp ở Hà Nội đứng ra tổ chức triển lãm Chân dung văn nghệ sĩ Việt Nam.[3]

Bên cạnh đó, nhiều tác phẩm hội họa của ông cũng được ghi lại trong suốt cuộc đời hoạt động nghệ thuật ở nhiều thể loại khác nhau.[20] Những tác phẩm mà ông vẽ được trưng bày ở nhiều triển lãm trong và ngoài Việt Nam, trong đó có nhiều bức tranh được xuất bản và đạt giải thưởng cao. Đáng chú ý là tuyển tập 100 chân dung các văn nghệ sĩ hoạt động trong các ngành nghệ thuật khác nhau do ông vẽ được xuất bản năm 1980.[22] Năm 1988, Nguyễn Đình Phúc ra mắt công chúng tập thơ "Lá hát" gồm 83 bài thơ của bản thân ghi lại những suy tư trong cả cuộc đời nghệ thuật.[22]

Qua đời

Những năm cuối đời, Nguyễn Đình Phúc bị ốm nặng. Sau khi bị ốm nặng, ông còn hoàn thành một tập thơ mang tên "Thơ tình không gửi" gồm 30 bài thơ là 30 mối tình ngang trái tổng kết lại toàn bộ cuộc đời.[22] Bức chân dung Nguyễn Phan Chánh là bức chân dung cuối cùng của Nguyễn Đình Phúc, ông hoàn thành 2 ngày trước khi qua đời.[2] Nguyễn Đình Phúc qua đời ngày 28 tháng 5 năm 2001 ở tuổi 81.[15][23] Ông được trao Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật cùng năm 2001.[2]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Nguyễn Đình Phúc //www.worldcat.org/oclc/1223293284 //www.worldcat.org/oclc/271705047 //www.worldcat.org/oclc/682149444 //www.worldcat.org/oclc/701746655 http://daidoanket.vn/cung-thanh-la-tieng-me-450016... http://www.cinet.gov.vn/amnhac/main.asp?c1=27&ArID... http://tapchimythuat.vn/my-thuat-hien-dai-viet-nam... https://www.sbs.com.au/language/vietnamese/vi/podc... https://www.rfi.fr/vi/viet-nam/20170128-thuong-nho... https://vnexpress.net/tac-gia-tieng-dan-bau-qua-do...